Ngày 17 tháng 7 năm 2009, tại trụ sở Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa giám đốc thẩm xét xử vụ án dân sự về “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa:
Nguyên đơn:
1. Bà Nguyễn Thu Thủy, sinh năm 1939; trú tại ấp 4, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, tỉnh Long An ủy quyền cho anh Nguyễn Công Hưng, sinh năm 1975; trú tại ấp 4, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, tỉnh Long An tham gia tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm theo giấy đề cử đại diện ngày 25-11-2005.
2. Anh Nguyễn Ngọc Chất, sinh năm 1959; trú tại ấp 4, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Bị đơn: Ông Nguyễn Minh Ngọc, sinh năm 1952; trú tại ấp 4, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Cụ Võ Thị Thuận; địa chỉ tại: 11401-Brookhurst, Garden, Grove, CA 92840, USA.
NHẬN THẤY:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 05-5-2002 và quá trình tố tụng bà Nguyễn Thu Thủy trình bày: năm 1960 cụ Nguyễn Văn Dị (là cha của bà và ông Ngọc) mua 5000m2 đất tại ấp 4, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, tỉnh Long An để cất nhà ở, sau khi có chồng thì vợ chồng bà vẫn ở cùng cụ Dị. Năm 1978 cụ Dị cho bà cất nhà kế bên để ở. Năm 1981 cụ Dị vượt biên sang Mỹ để lại nhà trên 5000m2 đất thổ vườn cho bà quản lý, sử dụng còn nhà của bà làm bếp. Năm 1987, ủy ban nhân dân xã Mỹ Yên mượn nhà của bà làm trường mẫu giáo một thời gian thì trả lại cho bà. Thời gian này ông Nguyễn Trung Hiếu (là em cùng cha khác mẹ của bà) có hộ khẩu thường trú tại ấp 4, xã Mỹ Yên nhưng ông Hiếu sống ở Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1991 Nhà nước có chủ trương đăng ký kê khai quyền sử dụng đất, bà kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo mẫu của tỉnh (bìa trắng) ngày 17-8-1991 trong đó có 5000m2 đất thổ đang tranh chấp. Năm 1993 bà giao nhà này cho ông Hiếu quản lý. Năm 1995 Nhà nước có chủ trương đổi từ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo mẫu của tỉnh sang mẫu của Trung ương thì ông Hiếu kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21-5-1996 diện tích 4386m2. Thời gian này do bà bị bệnh nên ông Hồ Văn Tư (là chồng của bà) đi kê khai, đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được biết ông Hiếu đã kê khai 5000m2 đất thổ vườn nên bà không được kê khai cấp giấy. Bà khiếu nại, tại quyết định số 1474/QĐ.UB ngày 02-10-2000 Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Hiếu. Cũng thời gian này, ông Hiếu làm thủ tục xuất cảnh sang Mỹ nhưng ông Hiếu lại ủy quyền làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Minh Ngọc, ông Ngọc đã có đơn khởi kiện vụ án hành chính đối với quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức. Tòa án các cấp đã bác yêu cầu khởi kiện hành chính của ông Ngọc.
Bà không thừa nhận tờ ủy quyền ngày 16-5-1981 của cụ Dị giao quyền sử dụng đất và các tài sản trên đất cho ông Hiếu và cho rằng tờ ủy quyền này là giả mạo vì thời gian này cụ Dị đã đi vượt biên. Bà xác định cụ Dị đã cho bà phần diện tích đất trên và bà đã cất nhà sử dụng ổn định từ năm 1978 đến nay nên bà yêu cầu công nhận 5000m2đất tranh chấp là của bà.
Anh Nguyễn Ngọc Chất (là con của bà Thủy) trình bày: mẹ con anh sống cùng với cụ Dị, khi anh lập gia đình, cụ Dị cho anh đất cất nhà ở riêng. Hiện anh không có chỗ ở nào khác nên anh yêu cầu được tiếp tục sử dụng phần đất mà cụ Dị đã cho và anh đã cất nhà ở.
Bị đơn ông Nguyễn Minh Ngọc trình bày: Diện tích đất tranh chấp là của dụ Nguyễn Văn Dị (là cha của ông). Bà Thủy (là chị cùng cha khác mẹ với ông) tuy lập gia đình riêng nhưng vẫn ở chung với cụ Dị. Năm 1981 cha mẹ ông đi nước ngoài nên làm giấy ủy quyền cho con ông là Nguyễn Trung Hiếu quản lý và sử dụng 5000m2 đất thổ, việc ủy quyền không có xác nhận của chính quyền địa phương. Ông Hiếu trực tiếp canh tác và được cấp giấy chứng nhận theo mẫu của tỉnh năm 1991 đối với diện tích đất trên. Năm 1996 ông Hiếu đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng theo mẫu Trung ương diện tích 4386m2 thuộc hai thửa đất số 2828, 2852. Tháng 7-1999 ông Hiếu đi xuất cảnh theo diện đoàn tụ gia đình nên đã chuyển quyền sử dụng 4386m2 đất thổ cho ông, ông đã làm thủ tục và đang chờ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (đã đóng thuế trước bạ) thì bà Thủy khiếu nại vàỦy ban nhân dân huyện Bến Lức đã thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Hiếu đứng tên. Năm 2001 cụ Võ Thị Thuận (là mẹ của ông) về nước và có thiện chí cho bà Thủy, anh Chất được sử dụng 1000m2 đất trong tổng diện tích 4386m2 vì trước kia bà Thủy đã được cụ Dị chia cho 20.000m2 đất ruộng ở ấp 5, xã Mỹ Yên nhưng bà Thủy không đồng ý mà bà Thủy chỉ đồng ý cho ông sử dụng phần nhà của cụ Dị để lại. Ông yêu cầu xác định toàn bộ diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của ông và yêu cầu mẹ con bà Thủy dỡ nhà về phần đất mà cụ Dị đã cho bà Thủy ở ấp 5, xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, tỉnh Long An để trả lại đất cho ông.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 19/DSST ngày 29-7-2003 Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An quyết định:
Chia cho bà Thủy phần đất có diện tích 3.346m2 gồm một phần của thửa số 2828, thửa số 2826, 2852, 2850, 2851; chia cho anh Nguyễn Ngọc Chất phần đất có diện tích 1.417m2 nằm trong thửa 2828; chia cho ông Nguyễn Minh Ngọc phần đất có diện tích 1.411m2 trong thửa 2828, một phần của thửa 2827. Đất tọa lạc tại ấp 4, xã Mỹ Yên. Ông Ngọc phải tháo dỡ một phần chuồng gà nằm bên phần đất được chia cho anh Chất.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, về chi phí đo đạc, định giá và tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 04-8-2003, ông Ngọc kháng cáo không đồng ý việc chia đất cho bà Thủy và anh Chất vì bà Thủy đã được cụ Dị chia đất.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 201/DSPT ngày 25-9-2003 Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:
Giữ nguyên nội dung phần quyết định của bản án sơ thẩm; cải sửa phần tiền án phí.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về chi phí đo đạc, định giá.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Nguyễn Minh Ngọc có đơn khiếu nại.
Tại Quyết định số 59/KN-VKSTC-V5 ngày 20-9-2004, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm số 201/DSPT ngày 25-9-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An; đề nghị Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân tỉnh Long An, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 159/GĐT-DS ngày 21-12-2004 Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định:
Hủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm, giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2005/DS-ST ngày 26-9-2005 Tòa án nhân dân tỉnh Long An quyết định:
- Bà Nguyễn Thu Thủy được quyền sử dụng 2.040m2 đất gồm một phần của thửa số 2828, 2850, 2851, 2852, 2826, 2827 theo tờ bản đồ số 2 tại ấp 4 xã Mỹ Yên (có tứ cận).
- Anh Nguyễn Ngọc Chất được quyền sử dụng phần đất có diện tích 1.417m2 đất thuộc một phần thửa 2828 tờ bản đồ số 2 tại ấp 4 xã Mỹ Yên (có tứ cận).
- Giao cho ông Nguyễn Minh Ngọc quản lý tài sản chung của cụ Nguyễn Văn Dị và cụ Võ Thị Thuận gồm nhà, tài sản trong nhà và phần đất có diện tích 2.712m2 trong đó 1/2 là di sản của cụ Dị chờ hướng dẫn của Quốc hội sẽ giải quyết sau khi có yêu cầu gồm thửa thứ 1 diện tích 1.441m2 (có tứ cận) và thửa thứ 2 diện tích 1.031m2 (có tứ cận).
- Ông Ngọc phải tự bứng nhổ, di dời các cây trồng đã trồng trên đất thuộc quyền sử dụng của bà Nguyễn Thu Thủy và anh Nguyễn Ngọc Chất để giao trả đất cho bà Thủy và anh Chất sử dụng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí; về chi phí đo đạc, định giá và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 03-10-2005 ông Nguyễn Minh Ngọc có đơn kháng cáo.
Ngày 07-9-2005 bà Nguyễn Thu Thủy có đơn kháng cáo.
Ngày 24-10-2005 cụ Võ Thị Thuận có đơn kháng cáo.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 109/2006/DSPT ngày 28-3-2006 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Ngọc có đơn khiếu nại và ngày 10-01-2008 ông Nguyễn Minh Ngọc tiếp tục có đơn khiếu nại bản án dân sự phúc thẩm số 109/DSPT ngày 28-3-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Tại quyết định số 90/2009/KN-DS ngày 24-3-2009, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 06/2005/DS-ST ngày 26-9-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật với nhận định (trích):
Cụ Nguyễn Văn Dị có vợ cả là cụ Võ Thị Út; bà Nguyễn Thu Thủy là con của Dị và cụ Út. Sau khi cụ Út chết (năm 1949), cụ Dị chung sống với cụ Võ Thị Thuận (em ruột cụ Út); ông Nguyễn Minh Ngọc, Nguyễn Trung Hiếu là con của cụ Dị và cụ Thuận. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì khoảng năm 1960 cụ Dị nhận chuyển nhượng 5000m2 đất và quản lý, sử dụng phần đất của cha mẹ để lại tổng cộng là khoảng 83.500m2 đất, trong đó có 5000m2 đất thổ vườn thuộc thửa số 1750 tờ bản đồ số 2 xã Yên Mỹ, huyện Bến Lức, tỉnh Long An để cất nhà ở, phần còn lại phát canh thu tô.
Sau khi giải phóng, cụ Dị thuộc diện cải tạo, thực hiện chính sách của Nhà nước, tại quyết định số 384-RĐ/UB-QĐ77 ngày 12-9-1977 Ủy ban nhân dân tỉnh Long An đã trưng thu toàn bộ ruộng đất phát canh của cụ Dị, đồng thời căn cứ vào nhu cầu và số nhân khẩu trong gia đình (gồm cụ Dị, cụ Thuận, bà Thủy và anh Chất là con của bà Thủy) Chính quyền địa phương đã cấp cho gia đình cụ Dị 1,3ha đất để canh tác theo mức bình quân đầu người tại địa phương (trong đó có 5000m2 đất thổ vườn). Khoảng cuối tháng 4/1981 cụ Dị vượt biên trái phép, toàn bộ nhà đất do mẹ con bà Thủy quản lý, sử dụng còn ông Hiếu, ông Ngọc (là các con của cụ Dị) sinh sống ở thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Quá trình quản lý, sử dụng, bà Thủy kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 17-8-1991 (trong đó có 5.000m2 đất thổ vườn nêu trên).
Như vậy, có cơ sở để xác định khi thực hiện chính sách về quản lý đất đai của Nhà nước thì gia đình cụ Dị chỉ được Nhà nước công nhận quyền sử dụng một phần trong tổng diện tích đất mà cụ Dị tạo lập (1,3ha/ 8,35ha). Khi đó gia đình cụ Dị ở tại địa phương chỉ có cụ Dị, bà Thủy và anh Chất. Sau khi vợ chồng cụ Dị vượt biên trái phép , theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Quyết định số 297/CT ngày 02-10-1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và Thông tư số 383/BXD-TT ngày 05-10-1991 của Bộ Xây dựng thì phần nhà đất trên phải được Nhà nước xem xét, quản lý. Tuy nhiên, Nhà nước đã không quản lý mà giao cho mẹ con bà Thủy sở hữu, sử dụng bằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, nhà đất nêu trên là của mẹ con bà Thủy.
Trong quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Minh Ngọc cho rằng toàn bộ nhà đất nêu trên vẫn là của vọ chồng cụ Dị và cụ Dị ủy quyền cho ông Hiếu quản lý, sử dụng 5000m2 đất thổ, ông Hiếu kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo mẫu Trung ương), sau đó ông Hiếu ủy quyền cho ông nên ông yêu cầu mẹ con bà Thủy trả lại nhà đất. Xem xét những lời trình bày thấy: Kể từ ngày 12-9-1977 Ủy ban nhân dân tỉnh Long An trưng thu toàn bộ đất nêu trên của cụ Dị thì số đất này không còn là của cụ Dị nữa và những người đang sinh sống cùng cụ Dị là bà Thủy, anh Chất chỉ được giao 1,3ha đất để canh tác nên chỉ những người được giao đất mới có quyền sử dụng. Trong khi đó ông Hiếu, ông Ngọc (là các con của cụ Dị ) sinh sống ở nơi khác, không sống cùng cụ Dị ở xã Mỹ Yên, huyện Bến Lức, tỉnh Long An nên không được giao đất cùng cụ Dị.
Khi vợ chồng cụ Dị vượt biên trái phép, Nhà nước đã xem xét quản lý, quyết định thừa nhận mẹ con bà Thủy có quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất này nên diện tích đất có tranh chấp cũng không còn là của cụ Dị. Do đó, cụ Dị không còn quyền để lập ủy quyền cho ông Hiếu, sau đó ông Hiếu ủy quyền cho ông Ngọc đối với diện tích đất đang do mẹ con bà Thủy sử dụng. Hơn nữa, theo xác nhận của các nhân chứng thì cụ Dị vượt biên khoảng ngày 27-4-1981, nhưng đến ngày 16-5-1981 cụ Dị lập giấy ủy quyền cho ông Hiếu là đã sau ngày cụ vượt biên; giấy ủy quyền nêu trên không có xác nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên việc ủy quyền nêu trên là không đúng pháp luật. Do vậy, việc ông Hiếu ủy quyền lại cho ông Ngọc cũng là trái quy định của pháp luật. Việc Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hiếu là không đúng pháp luật nên ngày 10-10-2000 Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức đã có quyết định thu hồi.
Trong trường hợp này lẽ ra phải xác định toàn bộ nhà đất có tranh chấp là của mẹ con bà Thủy mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định toàn bộ nhà đất đang do mẹ con bà Thủy và ông Ngọc sử dụng vẫn là của cụ Dị, đồng thời xác định cụ Dị đã cho mẹ con bà Thủy một phần đất, phần còn lại vẫn là của vợ chồng cụ Dị, nhưng do cụ Dị đã chết nên một phần là di sản của cụ Dị, từ đó giao cho ông Ngọc quản lý là không đúng pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy bản án dân sự sơ thẩm số 06/2005/DS-ST ngày 26-9-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An và bản án dân sự phúc thẩm nêu trên của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử sơ thẩm lại.
XÉT THẤY:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì diện tích đất thổ vườn tranh chấp giữa bà Thủy và ông Ngọc là của cụ Nguyễn Văn Dị (là cha của các đương sự), nhưng theo nội dung quyết định số 384-RĐ/UB.QĐ77 của Ủy ban nhân dân tỉnh Long An; báo cáo số 10/BC.UB ngày 28-8-2000 của Ủy ban nhân dân xã Mỹ Yên và báo cáo của Thanh tra xã Mỹ Yên có cơ sở xác định cụ Dị là nhân viên ngụy quyền có con làm sỹ quan ngụy nên Nhà nước đã trưng thu toàn bộ ruộng đất trực canh và phát canh của cụ Dị, đồng thời xem xét nhân khẩu và người trực canh trong gia đình chính quyền địa phương đã cấp cho gia đình cụ Dị (gồm cụ Dị, bà Thủy và anh Chất) 1,3 ha đất để canh tác theo mức bình quân đầu người tại địa phương trong đó có cả phần đất thổ vườn đang tranh chấp. Tháng 4-1981 cụ Dị vượt biên trái phép, toàn bộ nhà, đất nêu trên do mẹ con bà Thủy tiếp tục quản lý, sử dụng (vì mẹ con bà Thủy sống chung cùng với cụ Dị) và bà Thủy đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dung đất theo mẫu của tỉnh đối với phần diện tích đất này nên theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Quyết định số 297/CT ngày 02-10-1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và Thông tư số 383/BXD-TT ngày 05-10-1991 của Bộ xây dựng thì nhà đất trên không còn là tài sản của cụ Dị nữa mà thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà Thủy. Ông Ngọc cho rằng trước khi cụ Dị đi xuất cảnh thì cụ đã làm giấy ủy quyền cho ông Nguyễn Trung Hiếu (là anh của ông), ông Hiếu đăng ký kê khai và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất này. Trước khi đi xuất cảnh ông Hiếu ủy quyền cho ông được toàn quyền định đoạt đối với diện tích đất trên nên diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông. Xem xét giấy ủy quyền của cụ Dị cho ông Hiếu thấy rằng: Theo xác nhận của các nhân chứng thì khoảng ngày 27-4-1981 cụ Dị vượt biên nhưng ngày 16-5-1981 cụ Dị mới lập giấy ủy quyền tài sản cho ông Hiếu. Như vậy là cụ Dị đã ủy quyền sau khi cụ vượt biên và giấy ủy quyền cũng không có xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hơn nữa cụ Dị vượt biên trái phép nên cụ Dị không có quyền ủy quyền về tài sản; do đó giấy ủy quyền của cụ Dị cho ông Hiếu và ông Hiếu ủy quyền cho ông Ngọc đều không có giá trị pháp lý; mặt khác do việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hiếu không đúng với quy định của pháp luật đất đai nên Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức đã ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Hiếu. Ông Ngọc là người được ông Hiếu ủy quyền cũng đã có đơn khởi kiện vụ án hành chính với Ủy ban nhân dân huyện Bến Lức về quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Hiếu. Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án hành chính và đã quyết định bác đơn khởi kiện của ông Ngọc. Như vậy, có cơ sở xác định bằng quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Hiếu và bằng quyết định tại bản án hành chính có hiệu lực pháp luật Nhà nước đã không thừa nhận nhà đất có tranh chấp là của cụ Dị, ông Hiếu và ông Ngọc. Lẽ ra khi giải quyết vụ án Tòa án các cấp phải căn cứ vào các quy định của Nhà nước về chính sách quản lý cải tạo đối với người vượt biên trái phép để xác định toàn bộ nhà đất tranh chấp là của mẹ con bà Thủy, đồng thời ghi nhận sự tự nguyện của bà Thủy cho ông Ngọc sử dụng phần diện tích đất có căn nhà do cụ Dị xây cất mới đúng. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm xác định toàn bộ nhà đất đang do mẹ con bà Thủy và ông Ngọc quản lý, sử dụng là của cụ Dị, đồng thời xác định cụ Dị đã cho mẹ con bà Thủy một phần đất, phần còn lại vẫn là của vợ chồng cụ Dị nhưng do cụ Dị đã chết nên một phần là di sản cụ Dị, từ đó giao cho ông Ngọc quản lý là không đúng pháp luật.
Vì các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 279 và khoản 2 Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy bản án dân sự phúc thẩm số 109/2006/DS-PT ngày 28-3-2006 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và hủy bản án dân sự sơ thẩm số 06/2005/DS-ST ngày 26-9-2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về vụ án “tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thu Thủy, anh Nguyễn Ngọc Chất với bị đơn là ông Nguyễn Minh Ngọc; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cụ Võ Thị Thuận.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do bản án phúc thẩm và bản án sơ thẩm bị hủy:
Tòa án đã sai lầm khi xác định cả phần diện tích đất đã bị Nhà nước thu hồi là di sản để giải quyết là không đúng pháp luật.