Phòng chống tham nhũng đã trở thành khái niệm được chắc đến mọi lúc, mọi nơi, mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nhiều năm qua ở Việt Nam. Hiện nay, khẩu hiệu và chương trình hành động không chỉ là "phòng chống tham nhũng" mà còn là "phòng chống tham nhũng tiêu cực". Tham nhũng và tiêu cực là những nguyên nhân làm giảm sút uy tín của đảng trước nhân dân, tạo ra sự bất bình đẳng, mất công bằng xã hội, cản trở sự phát triển của xã hội và có nguy cơ đe dọa đến sự tồn vong của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy đảng và nhà nước ta phát động phong trào phòng chống tham nhũng tiêu cực ở giai đoạn hiện nay là vô cùng cần thiết, đó là xu hướng tất yếu của lịch sử.
Trong những năm qua, thực hiện Nghị quyết của Đại hội XII, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng thì công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của đảng và nhà nước, đồng thời cũng là mục tiêu để thúc đẩy công bằng và tiến bộ xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 25/01/2021 đến ngày 01/02/2021, tại Thủ đô Hà Nội, sau khi thảo luận các văn kiện do Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII trình, tổng kết thực tiễn, Nghị quyết nêu rõ: Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị được đặc biệt chú trọng, triển khai toàn diện, đồng bộ, hiệu quả. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực chuyển biến mạnh mẽ, có bước đột phá gắn kết chặt chẽ giữa "xây" và "chống", có hiệu quả, ngày càng đi vào chiều sâu. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng được củng cố vững mạnh. Công tác lãnh đạo của Đảng với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được tăng cường, mối quan hệ phối hợp ngày càng chặt chẽ, đồng bộ. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, kiên quyết, kiên trì giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc; quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và hiệu quả; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc hoàn thiện thể chế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chậm, chưa tạo được chuyển biến căn bản; năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa có nhiều đột phá, hiệu quả chưa cao; đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu còn bất cập. Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế. Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn một số hạn chế.
Mục tiêu tổng quát mà Nghị quyết XIII nêu ra là: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục tiêu cụ thể thể hiện: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Định hướng các chỉ tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Đến năm 2025, GDP bình quân đầu người khoảng 4.700 - 5.000 USD; đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt khoảng 45%; tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân trên 6,5%/năm; tỉ lệ đô thị hoá khoảng 45%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt trên 25%; kinh tế số đạt khoảng 20% GDP.
Về xã hội: Đến năm 2025, tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội khoảng 25%; tỉ lệ lao động qua đào tạo là 70%; tỉ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị năm 2025 dưới 4%; tỉ lệ nghèo đa chiều duy trì mức giảm 1 - 1,5% hằng năm; có 10 bác sĩ và 30 giường bệnh/1 vạn dân; tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95% dân số; tuổi thọ trung bình đạt khoảng 74,5 tuổi; tỉ lệ xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới tối thiểu 80%, trong đó ít nhất 10% đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu.
Về môi trường: Đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95 - 100%, nông thôn là 93 - 95%; tỉ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 90%; tỉ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường là 92%; tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỉ lệ che phủ rừng ổn định 42%.
Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, gắn kết hài hoà, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế. Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.
Đặc biệt Nghị quyết nhấn mạnh: Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội. Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng và công tác dân vận của Đảng. Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.
Như vậy có thể nói đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta là đúng đắn, là khoa học, phù hợp với sự phát triển và tiến bộ xã hội. Trong những năm qua kinh tế xã hội bị trong nước bị tác động, ảnh hưởng nhiều bởi dịch bệnh Covid-19, bởi tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, của xung đột Nga và Ukraina... Quy luật cung cầu trên thế giới thay đổi mạnh, doanh nghiệp trong và ngoài nước gặp nhiều khó khăn, số doanh nghiệp phá sản, người lao động mất việc làm ngày càng gia tăng, đời sống kinh tế xã hội đã và đang gặp nhiều khó khăn...
Bởi vậy, đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực là cần thiế. Tuy nhiên giai đoạn hiện nay tôi cho rằng song song với hoạt động phòng chống tham nhũng thì chúng ta cần phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề phát triển kinh tế xã hội, đấu tranh phòng chống tham nhũng phải hướng đến mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội, tạo ra môi trường đầu tư lành mạnh để thu hút đầu tư, "cởi trói" cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp kinh doanh, tạo việc làm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân. Kết quả phòng chống tham nhũng phải làm cho mọi thứ trở nên công khai, minh bạch, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm bớt nhũng nhiễu, tiêu cực, mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính, dám nghĩ, dám làm có cơ hội đầu tư, mở rộng kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập cho doanh nghiệp và xã hội.
Tại phiên họp thứ 23 của Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có ghi nhận về kết quả phòng chống tham nhũng năm 2022 như sau:
Năm 2022, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, có bước tiến mới, quyết liệt, đồng bộ, toàn diện và hiệu quả hơn. Nhất là gắn phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với công tác cán bộ, xử lý nghiêm sai phạm, miễn nhiệm, từ chức theo quy định của Đảng, Nhà nước, để lại dấu ấn tốt, củng cố thêm niềm tin của nhân dân, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 2022.
Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế tiếp tục được đẩy mạnh, tạo hiệu quả rõ rệt trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng chống, tham nhũng, tiêu cực. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành gần 50 nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, hướng dẫn về xây dựng Đảng, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhất là chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh; về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; về xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; về bố trí công tác đối với cán bộ bị xử lý kỷ luật; về chủ trương phân loại, xử lý tổ chức đảng và đảng viên có sai phạm liên quan đến các vụ án, vụ việc xảy ra tại Công ty Việt Á… Nhiều quy định đi vào cuộc sống, phát huy hiệu quả ngay sau khi vừa ban hành.
Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành tập trung xây dựng, ban hành, tổ chức triển khai thực hiện 640 văn bản quy phạm pháp luật quan trọng về quản lý kinh tế-xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Trong năm 2022, đã thi hành kỷ luật 539 đảng viên do tham nhũng, cố ý làm trái. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 47 cán bộ diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý (tăng 15 trường hợp so với năm trước); cho thôi giữ chức Ủy viên Trung ương Đảng (khóa XIII) đối với 5 đồng chí; cho thôi giữ chức vụ đối với 2 Phó Thủ tướng Chính phủ, 3 Thứ trưởng và tương đương, 1 Chủ tịch Tập đoàn Công nghiệp than-khoáng sản Việt Nam (TKV); các địa phương đã cho từ chức, miễn nhiệm 3 chủ tịch HĐND, chủ tịch UBND tỉnh theo chủ trương sắp xếp, bố trí công tác đối với cán bộ bị xử lý kỷ luật, uy tín giảm sút.
Qua thanh tra, kiểm toán đã kiến nghị xử lý tài chính, thu hồi 82.560 tỷ đồng và 883 ha đất; kiến nghị xử lý hành chính 3.530 tập thể và 8.619 cá nhân.
Các bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực hiện có hiệu quả cơ chế phối hợp trong phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực qua công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; đã chuyển 557 vụ việc có dấu hiệu tội phạm sang cơ quan điều tra để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật (tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2021).
Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan chống tham nhũng được chú trọng, tăng cường; trong năm đã xử lý kỷ luật trên 200 cán bộ, công chức của các cơ quan này có sai phạm liên quan đến tham nhũng, tiêu cực, trong đó chuyển xử lý hình sự 74 trường hợp.
Trong năm 2022, trên cả nước đã khởi tố mới 493 vụ/1.123 bị can về tội tham nhũng (tăng 163 vụ/328 bị can so với năm 2021).
Ban Chỉ đạo đã thành lập 8 đoàn kiểm tra về công tác phát hiện, chuyển giao, tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố về các vụ việc tham nhũng, tiêu cực và công tác giám định, định giá tài sản để chấn chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong lĩnh vực này.
Công tác thu hồi tài sản tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết quả, các cơ quan tiến hành tố tụng đã tạm giữ, kê biên, phong tỏa tài khoản trị giá trên 364.000 tỷ đồng (tăng hơn 10 lần so với năm 2021); cơ quan thi hành án dân sự thu hồi được 27.400 tỷ đồng (tăng gấp 3 lần so với năm 2021).
Các tỉnh ủy, thành ủy đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc chủ trương của Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, khẩn trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh. Nhiều Ban Chỉ đạo cấp tỉnh đã đi vào hoạt động nền nếp, hiệu quả; công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở địa phương, cơ sở có chuyến biến rõ rệt.
Trong năm 2022, các cơ quan báo chí đã đăng tải 11.607 tin bài, phóng sự về kết quả nổi bật của công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (tăng hơn 2 lần so với năm 2021). Qua đó khẳng định và lan tỏa quyết tâm của Đảng, Nhà nước; tạo sự đồng thuận, ủng hộ cao của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tăng cường giám sát các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực.
Như vậy, có thể thấy rằng phòng chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đã trở thành một xu thế tất yếu, thể hiện sự đồng lòng quyết tâm của đảng, nhà nước và nhân dân. Phòng chống tham nhũng không chỉ thực hiện ở trung ương, do trung ương chỉ đạo mà ở các tỉnh cũng đã có các ban phòng chống tham nhũng ở các tỉnh để hướng đến công bằng, công khai, minh bạch, để lấy lại niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ nhà nước.
Qua con số thống kê về số cán bộ bị xử lý kỷ luật, số vụ án về tham nhũng kinh tế bị khởi tố, số bị can bị bắt, bị xét xử cho thấy kết quả đấu tranh phòng chống tham nhũng đang rất hiệu quả, quyết liệt, quyết tâm cao và không ngừng nghỉ. Kết quả đấu tranh phòng chống tham nhũng đã cho thấy tính chất răn đe, cảnh tỉnh đối với nhiều cán bộ. Biểu hiện "không dám tham nhũng" được thể hiện rõ nét qua nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, hiện nay trong khối các cơ quan nhà nước thời gian qua lại đang xuất hiện hiện tượng cán bộ ngại việc, sợ việc, sợ sai nên đùn đẩy trách nhiệm, không dám làm, không dám đột phá, công việc trì trệ. Chưa có khi nào các bệnh viện công không thiếu nguồn vốn ngân sách nhà nước nhưng lại thiếu vật tư y tế, thiếu thuốc như giai đoạn hiện nay. Thiếu thốn này không phải là do thiếu nguồn cung hay thiếu ngân sách mà là thiếu trách nhiệm, sợ sai của cán bộ có thẩm quyền trong việc mua sắm thiết bị, vật tư y tế. Không chỉ có lĩnh vực y tế, nhiều ngành nghề lĩnh vực khác cũng xuất hiện hiện tượng không dám nghĩ, không dám làm, sợ sai nên đùn đẩy né tránh trách nhiệm, cấp trên xuống cấp dưới, cấp dưới đấy lên cấp trên, việc của mình không làm.
Vấn đề sợ sai, sợ trách nhiệm đang trở thành vấn đề nổi cộm hiện nay. Tại kỳ họp Quốc Hội đang diễn ra, nhiều đại biểu Quốc Hội cũng đã nêu vấn đề này và chỉ ra những nguyên nhân của việc sợ sai, sợ trách nhiệm trong cán bộ hiện nay. Ông Nguyễn Hữu Thông – Phó trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Bình Thuận cho rằng, vì nhiều nguyên nhân đã làm nảy sinh tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm trong đội ngũ cán bộ, kể cả cán bộ lãnh đạo quản lý, đang cản trở sự phát triển của đất nước. Để khắc phục tình trạng này cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật, đặc biệt là thể chế hóa chủ trương khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám nói, dám đột phá sáng tạo và dám đương đầu với khó khăn, thử thách (6 dám) mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Kết luận 41 của Bộ chính trị đã yêu cầu.
Theo bà Phạm Phương Thảo, nguyên Phó Bí thư Thành ủy TP. HCM, dù Đảng đã đề ra chủ trương bảo vệ cán bộ, nhưng việc tổ chức thực hiện chưa tốt, kể cả việc ban hành thể chế và tổ chức thực hiện. Thực tế hiện nay vẫn chưa bảo vệ được nhiều đối với cán bộ dám nghĩ, dám làm mà khi có sai phạm xảy ra vẫn xử lý trách nhiệm theo kiểu dây chuyền.
“Hiện nay, chúng ta nói phải bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm nhưng thực ra chúng ta chưa bảo vệ được bao nhiêu để đội ngũ cán bộ nhìn vào đó mà tự tin dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung. Cái này nói thì dễ nhưng trong thực tế có những vụ việc xử lý theo kiểu dây chuyền”, bà Phạm Phương Thảo cho biết.
TS. Nguyễn Văn Đáng, giảng viên Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, tư duy không làm không sai chính là tư duy sai, bởi vì cán bộ đang hưởng lương của cơ quan Nhà nước và có trách nhiệm phải phục vụ lợi ích của cộng đồng. Do đó, mỗi cán bộ, công chức cần phải có trách nhiệm, bổn phận trong việc phục vụ lợi ích công, lợi ích của nhân dân.
Còn theo TS. Đinh Duy Hòa, nguyên Vụ trưởng Vụ cải cách hành chính (Bộ Nội vụ), cán bộ lãnh đạo quản lý, người đứng đầu cơ quan, đơn vị cần tăng cường trách nhiệm trong thực thi công vụ. Nếu người nào lần chần, vin vào thể chế có chỗ chưa rõ ràng mà không dám triển khai thì phải tăng cường truy trách nhiệm, làm rõ. Bên cạnh đó, cần có văn bản pháp lý thể chế hóa Kết luận 14 của Bộ Chính trị.
Có thể thấy rằng công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng đang rất hiệu quả, nhiều cán bộ sai phạm bị phát hiện xử lý, tính nghiêm minh của pháp luật được thể hiện rõ ở các ngành, lĩnh vực, niềm tin của nhân dân đối với đảng được cùng cố và giữ vững. Những con số thống kê về kết quả đấu tranh phòng chống tham nhũng không gì có thể phủ nhận được, bước đầu đã tạo ra những chuyển biến tích cực trong cơ chế bộ máy nhà nước, răn đe cảnh tỉnh cho nhiều đối tượng. Tuy nhiên quá trình đấu tranh phòng chống tham nhũng cũng đã bộc lộ những vấn đề tồn tại cần phải giải quyết đó là vấn đề cán bộ sợ trách nhiệm, sợ sai nên đùn đẩy, né tránh gây cản trở sự phát triển của xã hội. Bên cạnh đó nhiều doanh nghiệp bị xử lý kéo theo hoạt động kinh doanh đổ vỡ, người lao động mất việc làm, phần nào ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội. Thêm vào đó khủng hoảng kinh tế thế giới, ảnh hưởng của chuỗi cung ứng toàn cầu sau đại dịch khiến cho kinh tế xã hội đang gặp nhiều thách thức. Bởi vậy, tôi cho rằng việc đấu tranh phòng chống tham nhũng là đúng hướng, đúng đắn, là cần thiết. Tuy nhiên cần phải tổng kết thực tiễn, đánh giá những mặt tích cực, những hạn chế, những vấn đề tồn tại phát sinh trong đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực hiện nay và trong bối cảnh kinh tế xã hội hiện nay để có những giải pháp khắc phục. Đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực phải hướng đến mục tiêu công bằng xã hội, công khai, minh bạch, dân chủ, tạo cơ hội cho những người dám nghĩ, dám làm, dám hành động một cách chân chính, chính đáng có cơ hội để phát triển, đóng góp công sức cho xã hội.
Trong đấu tranh phòng chống tham nhũng thì cần tích cực đẩy mạnh "phòng hơn chống", với những hành vi tham nhũng, tiêu cực xảy ra một thời gian kéo dài nhưng chưa có căn cứ rõ ràng để xử lý hình sự thì cần tăng cường công tác quản lý, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát để răn đe phòng ngừa. Nếu quản lý lỏng lẻo cả một thời gian dài, không phát hiện hoặc phát hiện nhưng không xử lý triệt để, rồi nay xử lý hình sự quyết liệt, triệt để, xử lý cả các hành vi đã diễn ra nhiều năm trước đó như những lĩnh vực đăng kiểm thì những hệ lụy kéo theo là không tránh khỏi. Thực tiễn hiện nay cho thấy khi khởi tố hàng loạt các cán bộ tại các trung tâm đăng kiểm từ Bắc chí Nam thì hoạt động đăng kiểm tồn động, tê liệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động và đời sống của nhân dân, đến việc kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cẩn thận trọng trong từng vụ án, bám sát lý luận cấu thành tội phạm để tránh oan sai
Đối với tội nhận hối lộ thì cần căn cứ vào lý luận cấu thành tội phạm để chứng minh tội phạm, cần phân biệt các trường hợp "nhận quà trái quy định", "lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ" và "nhận hối lộ". Trong nhiều vụ án hình sự thời gian gần đây vẫn xảy ra những tranh cãi liên quan đến cấu thành tội phạm của hành vi "nhận hối lộ" với hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, thậm chí với hành vi "nhận quà trái quy định". Hậu quả pháp lý là rất khác nhau đối với hành vi nhận quà trái quy định và nhận hối lộ. Nếu nhận quà trái quy định thì chỉ có thể xử lý kỷ luật, trong khi đó nhận hối lộ thì có mức hình phạt cao nhất là tử hình. Để xử lý đối với các hành vi nhận hối lộ thì cơ quan tiến hành tố tụng phải có căn cứ rõ ràng để chứng minh "đã có sự thỏa thuận" giữa người có chức vụ quyền hạn với người khác để nhận tiền, nhận quà, rồi thực hiện công việc theo theo yêu cầu của người đưa tiền, đưa quà thì mới đủ căn cứ để xử lý về tội nhận hối lộ. Để xử lý về tội danh gì thì phải căn cứ vào kết quả chứng minh và theo quy định của pháp luật, theo lý luận về cấu thành tội phạm để tránh oan sai cũng như không để bỏ lọt tội phạm.
Việc phát hiện xử lý tội phạm là tốt, tuy nhiên làm thế nào để không phải xử lý thì sẽ tốt hơn. Ở nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay tình hình tội phạm được kiểm soát rất tốt do công tác quản lý xã hội được thực hiện chặt chẽ, khoa học. Thậm chí nhiều quốc gia liên tục đóng cửa các nhà tù vì thiếu tủ nhân. Việc phát hiện xử lý tội phạm là tốt, tuy nhiên làm thế nào để không phải xử lý thì sẽ tốt hơn. Theo các con số thống kê ở Việt Nam hiện nay thì tình hình tội phạm vẫn diễn biến phức tạp, số vụ án, số bị can bị cáo ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong nhóm tội về kinh tế, tham nhũng và chức vụ. Số lượng phạm nhân ở các trại giam liên tục gia tăng gây sức ép đến hoạt động giam giữ và gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội. Khi một quan chức hoặc một doanh nhân bị khởi tố, bị xử lý hình sự thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động nghề nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, dẫn đến doanh nghiệp phá sản, người lao động mất việc làm, gây thiệt hại đến tài sản của doanh nghiệp và của xã hội. Đối với quan chức bị bắt, bị khởi tố thì cơ quan đơn vị có người bị xử lý đó sẽ bị ảnh hưởng. Ngoài ra còn ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, đến tương lai sự phát triển của con cái của họ... Bởi vậy phải làm sao để hạn chế khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, để giảm bớt các trường hợp người có chức vụ quyền hạn bị kỷ luật phải bị khởi tố sẽ tốt hơn là việc khởi tố bắt giữ liên tục. Để làm được điều đó thì cần phải tăng cường các giải pháp phòng ngừa tội phạm phải kịp thời gian để cảnh tỉnh để giảm bớt các hành vi vi phạm pháp luật.
Tôi cho rằng giai đoạn hiện nay cần phải đưa ra rất nhiều mục tiêu trong phòng chống tham nhũng tiêu cực, trong đó chú trọng đến mục tiêu là đẩy mạnh công tác phòng ngừa hơn là chống, xử lý. Cần phải tính toán đến hiệu quả trong công tác phòng chống tham nhũng trước mắt và lâu dài đối với xã hội, làm sao giảm chi phí xã hội, tăng các giá trị cho nhà nước và nhân dân trong đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực. Đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực, song song với việc phát triển kinh tế xã hội, kích thích kinh tế xã hội phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, gia tăng các của cải vật chất cho xã hội, đảm bảo công bằng, văn minh và tiến bộ xã hội.Trong đấu tranh phòng chống tham nhũng thì thực hiện tuần tự, có hiệu quả các mục tiêu là làm sao cho người có chức vụ quyền hạn: 1- Không cần tham nhũng; 2- Không muốn tham nhũng; 3- Không thể tham nhũng và 4- Không dám tham nhũng.
Để người có chức vụ quyền hạn "không cần tham nhũng" thì cần phải nâng cao đời sống vật chất tinh thần, đặc biệt là cần cải cách chế độ tiền lương để người có chức vụ quyền hạn có mức thu nhập tương xứng với sức lao động bỏ ra, đảm bảo được đời sống vật chất tinh thần để họ yên tâm công tác và thờ ơ với những lợi ích vật chất, những cám dỗ trong quá trình xử lý công việc;
Để người có chức vụ quyền hạn "không muốn tham nhũng" thì ngoài việc đảm bảo đời sống vật chất tinh thần thì cần phải nâng cao vị thế của họ trong xã hội, được xã hội tôn vinh, yêu mến, trọng danh dự, không vì thiếu thốn hoặc cơ hội để thực hiện hành vi tham nhũng. Để đạt được mục tiêu này thì ngay từ khâu tuyển chọn, bổ nhiệm người có chức vụ quyền hạn cũng cần chọn đúng người, đúng việc. Trong quá trình sử dụng cán bộ, công chức thì cần phải tích cực bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kết hợp với bồi dưỡng đạo đức, bản lĩnh chính trị thì mới thực hiện tốt công việc và vượt qua được những cám dỗ trong cuộc sống;
Để người có chức vụ quyền hạn "không thể tham nhũng" thì cần phải có công tác quản lý khoa học, hiệu quả. Ở đây là quản lý xã hội, quản lý công việc, quản lý quyền lực sao cho người có chức vụ quyền hạn muốn tham nhũng, cần tham nhũng cũng không thể thực hiện được hành vi hoặc nếu có thực hiện được hành vi thì cũng dễ bị phát hiện, bị xử lý. Những hành vi vi phạm pháp luật cần phải được phát hiện kịp thời, có những biện pháp phòng ngừa ngăn chặn và xử lý ngay từ bước đầu, tăng cường các biện pháp xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính để tránh những hành vi vi phạm pháp luật đến mức xử lý hình sự có thể xảy ra. Khi làm tốt mục tiêu cho người có chức vụ quyền hạn không cần tham nhũng, không muốn tham nhũng (bằng cách đảm bảo điều kiện đời sống vật chất tinh thần và không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức công vụ) thì những người thực hiện hành vi tham nhũng còn lại không đáng kể, khi đó tăng cường công tác kiểm soát, quản lý thì những người đó ít có cơ hội để thực hiện hành vi phạm tội.
Biện pháp phòng chống tham nhũng cuối cùng, quyết định nhất mới là làm cho người có chức vụ quyền hạn "không dám tham nhũng". Để người có chức vụ quyền hạn không dám tham nhũng thì phải phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh. Vấn đề này chúng ta đang thực hiện khá tốt, tuy nhiên có vẻ như đang có "phản ứng phụ" khi mà nhiều cán bộ công chức sợ sai mà không dám thực hiện nhiệm vụ. Liên tục thông tin về những trường hợp cán bộ bị kỷ luật, bị khởi tố, bị bắt giam khiến cho một bộ phận không nhỏ cán bộ cảm thấy bất an, lo lắng mà không thực hiện nhiệm vụ, làm ảnh hưởng đến công vụ, ảnh hưởng đến công tác quản lý điều hành và trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống xã hội, vấn đề này nhìn thấy rõ nhất trong lĩnh vực y tế hiện nay.
Giải pháp phòng chống tham nhũng là làm sao cho người có chức vụ quyền hạn "Không dám" tham nhũng chứ không phải là "không dám thực hiện nhiệm vụ". "Không dám" là trạng thái tâm lý cảm xúc của người có ý định tham nhũng, nhìn thấy thời cơ tham nhũng chứ không phải là với mọi người có chức vụ quyền hạn. Vấn đề ở đây là người có chức vụ quyền hạn sợ bị xử lý hình sự mà không dám thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Nếu đấu tranh phòng chống tham nhũng mà khiến cho người có chức vụ quyền hạn sợ không dám thực hiện nhiệm vụ thì cần phải làm rõ quy định về nhiệm vụ, quy trình thực hiện nhiệm vụ có vướng mắc bất cập gì không, tồn tại là ở cơ chế chính sách pháp luật hay tồn tại ở trình độ nhận thức, ý thức của người thi hành công vụ? Vấn đề này các đại biểu Quốc Hội đã và đang có nhiều ý kiến quan tâm thể hiện trong các bài phát biểu trên nghị trường Quốc Hội nói nên các ý kiến của cử tri và chỉ ra các tồn tại ở trong nhiều bộ ngành cơ quan hiện nay.
Bởi vậy, để đấu tranh phòng chống tham nhũng tiêu cực có hiệu quả, thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà nghị quyết của Đảng và Nhà nước đã đề ra thì cần phải có tổng kết thực tiễn và nghiên cứu cụ thể đối với giải pháp này để hài hòa các giải pháp phòng, chống tham nhũng, đảm bảo hiệu lực hiệu quả của các biện pháp góp phần thúc đẩy kinh tế, văn hóa xã hội phát triển, xã hội công bằng, văn minh.