Logo

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ CHÍNH PHÁP

Yêu cầu bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả thay cho Nguyễn Thái Luyện với số tiền 2.500.000.000.000 đồng là không khả thi?
10/05/2023
icon-zalo

Người lạ yêu cầu bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả thay cho bị cáo số tiền hàng ngàn tỷ đồng là không khả thi ?

Bình luận về vấn đề này, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, luật sư thành phố Hà Nội cho rằng: Việc bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả với số tiền lớn như vậy là không khả thi và sẽ không có chuyện "người lạ" bồi thường khắc phục thay bị cáo với số tiền quá lớn như vậy. 

Cơ quan tiến hành tố tụng luôn khuyến khích bị can, bị cáo và thân nhân của họ tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả để giảm bớt thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và đồng thời đây cũng là tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tuy nhiên việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả phải tuân thủ các quy định của pháp luật về đối tượng bồi thường khắc phục, thủ tục bồi thường khắc phục và tính chất mức độ trong từng trường hợp cũng có thể khác nhau.
 
Lĩnh vực luật hình sự thì có hai vấn đề lớn là vấn đề tội phạm và vấn đề hình phạt. Trong một vụ án hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng thường quan tâm đến hai vấn đề là bị cáo có tội hay không, nếu có thì đó là tội gì và mức hình phạt ra sao. Khi có căn cứ để xác định hành vi của bị cáo thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm thì trong quá trình xét xử, hội đồng xét xử sẽ động viên bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Về nguyên tắc xét xử là sẽ khoan hồng nhân đạo đối với bị cáo nhận thức được sai phạm của mình thành khẩn, ăn năn hối lỗi và sẽ nghiệm trị với đối tượng không nhận thức được hành vi của mình, ngoan cố, chống đối, gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng... 
 
Trong vụ án này, tại giai đoạn xét xử phúc thẩm thì bị cáo Nguyễn Thái luyện và các đồng phạm đã nhận thức được sai phạm của mình, thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. Đây là tình tiết mới thể hiện thái độ thành khẩn ăn năn của bị cáo, có thể là tình tiết để hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt. Ngoài ra theo quy định của pháp luật thì người phạm tội hoặc người thân của họ tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cũng là tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. 
 
Về nguyên tắc quyết định hình phạt thì các tình tiết giảm nhẹ là một trong các căn cứ để quyết định hình phạt. Tuy nhiên không phải cứ có tình tiết giảm nhẹ là tòa án cấp phúc thẩm sẽ giảm mức hình phạt. Việc quyết định hình phạt cụ thể cho từng bị cáo (trường hợp bị cáo có tội) sẽ căn cứ vào các quy định của pháp luật về các loại hình phạt, mức (khung) hình phạt, trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Thực tiễn cho thấy có nhiều trường hợp bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây thiệt hại đặc biệt lớn và tại giai đoạn sơ thẩm bị áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc nhất, giai đoạn phúc thẩm có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ nhưng xét tính chất nghiêm trọng của vụ án thì tòa án cấp phúc thẩm vẫn có thể giữ nguyên mức hình phạt như tòa án sơ thẩm đã tuyên. Việc tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên mức hình phạt của tòa án sơ thẩm mặc dù có thêm nhiều tình tiết mới, nhiều tình tiết giảm nhẹ là không sai bởi có nhiều yếu tố quyết định đến hình phạt chứ không chỉ có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. 
 
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là tình tiết có trong một vụ án cụ thể, theo đó sẽ làm giảm trách nhiệm hình sự của người phạm tội khi lượng hình. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng trong mỗi vụ án hình sự cụ thể phải là những tình tiết đã được bộ luật hình sự quy định, trường hợp bộ luật không quy định cụ thể thì hội đồng xét xử phải ghi rõ trong bản án. Việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ khi lượng hình thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước với người phạm tội, đồng thời khuyến khích người phạm tội giảm bớt thiệt hại do hành vi của mình gây ra, có ý thức cải tạo, sửa chữa, khắc phục hậu quả đồng thời cũng là sự đánh giá của nhà nước đối với từng người, từng hoàn cảnh khi họ thực hiện hành vi phạm tội. 

Tình tiết “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, đây là trường hợp người phạm tội đã gây ra thiệt hại, thiệt hại đã thực tế xảy ra (có thể là thiệt hại vật chất hoặc thiệt hại phi vật chất) nhưng người phạm tội đã thừa nhận hành vi phạm tội, nhận thức được sai phạm của mình, muốn giảm bớt thiệt hại cho nạn nhân nên đã sửa chữa, bồi thường những thiệt hại do mình gây ra cho bên bị thiệt hại hoặc đã tự nguyện khắc phục hậu quả của tội phạm.

"Sửa chữa", "bồi thường" "hoặc khắc phục" là 03 hành vi có nội dung khác nhau điều chỉnh 03 hoạt động khác nhau của người phạm tội quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51. Theo mô tả của điều luật thì nội dung này là quy định tới 3 tình tiết giảm nhẹ chứ không phải là một tình tiết giảm nhẹ; nhưng tính chất của các tình tiết này có nét tương đồng nhau về bản chất nên được quy định trong cùng một điểm để áp dụng cho người phạm tội.

Về mặt ngữ nghĩa thì "Sửa chữa" là sửa lại, chữa lại những tài sản đã bị hư hỏng do hành vi phạm tội gây ra.

"Bồi thường" là đền bù bằng tài sản cho những thiệt hại mà tội phạm gây ra.

Khắc phục hậu quả là khắc phục những thiệt hại trực tiếp hoặc gián tiếp do hành vi phạm tội gây nên mà những thiệt này không thể bồi thường hay sửa chữa được. 

Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả thì đương nhiên được coi là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tuy nhiên, với đặc điểm của hoạt động tố tụng là bị can, bị cáo thường sẽ bị tạm giam nên không phải ai cũng có điều kiện để tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật của mình. Bởi vậy, trong trường hợp bị can, bị cáo đang bị tạm giam mà thông qua luật sư bào chữa hoặc điều tra viên để thông tin cho người thân bồi thường khắc phục hậu quả thay thì đây cũng là tình tiết có thể xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự theo khoản 1, Điều 51 BLHS. 

Còn trường hợp bị cáo không tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, không nhờ người khác tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả mà có người tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả thay cho bị cáo (bị cáo không biết) thì tình tiết này không được xem xét theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự mà chỉ có thể được xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. 

Khi áp dụng tình tiết này, nếu người phạm tội chỉ tự nguyện sửa chữa thì xác định người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa thiệt hại, không được xác định cả tình tiết bồi thường hoặc khắc phục hậu quả; nếu người phạm tội vừa tự nguyện sửa chữa, vừa tự nguyện bồi thường, vừa tự nguyện khắc phục hậu quả thì phải coi họ có cả ba tình tiết giảm nhẹ nếu hành vi của họ chỉ xâm phạm trực tiếp một khách thể. 

Theo điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định:“người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” thì mới được coi là tình tiết giảm nhẹ, còn không quy định rõ người khác bồi thường thay cho bị cáo thì được coi là tình tiết giảm nhẹ hay không. Điều luật này hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn nhưng thực tiễn giải quyết vụ án hình sự thời gian qua cho thấy nếu người phạm tội không tự mình thực hiện nhưng thông qua người khác, nhờ người khác thực hiện thay thì cũng sẽ được xem xét áp dụng tình tiết này để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. 

Theo hướng dẫn tại Tiểu mục 1.1 Mục 1 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì “người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả” nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a. Bị cáo là người từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 15 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;

b. Bị cáo là người từ đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi khi phạm tội và cha, mẹ của họ đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nếu bị cáo không có tài sản;

c. Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người  bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận, nếu số tiền, tài sản đó đã được giao cho cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác quản lý để thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;

d. Bị cáo (không phân biệt là người đã thành niên hay người chưa thành niên) hoặc cha, mẹ của bị cáo chưa thành niên xuất trình được chứng cứ chứng minh là họ đã tự nguyện dùng tiền, tài sản để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, nhưng người bị hại, nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối nhận và họ đã đem số tiền, tài sản đó về nhà cất giữ để sẵn sàng thực hiện việc bồi thường khi có yêu cầu;

đ. Bị cáo không có tài sản để bồi thường nhưng đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác (vợ, chồng, con, anh, chị, em, bạn bè…) sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;

e. Bị cáo không có trách nhiệm sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra (ví dụ việc bồi thường thiệt hại thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ) nhưng đã tự nguyện dùng tiền, tài sản của mình để sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc đã tích cực tác động, đề nghị cha, mẹ, hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả (nếu bị cáo không có tài sản để bồi thường) và những người này đã thực hiện việc sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra;

Tiểu mục 1.2 Mục 1 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC quy định:  Đối với các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm đ và e tiểu mục 1.1 Mục 1 này mà bị cáo không có việc tác động, đề nghị cha, mẹ hoặc người khác sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, nếu những người này đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra thì bị cáo chỉ được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 của BLHS;

Do vậy, nếu áp dụng tương tự pháp luật theo hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì trường hợp bị cáo tự mình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả hoặc tác động để người thân bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả thì mới được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, còn trường hợp bị can, bị cáo không trực tiếp bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả và cũng không tác động để người thân bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả thay mà có người bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả thay thì tòa án thì chỉ có thể áp dụng theo khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự.

Pháp luật không hạn chế chỉ có bị can bị cáo hoặc chỉ có người nhà, người thân mới được bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả mà bất kỳ ai nộp tiền, tài sản hay bị can, bị cáo vào cơ quan thi hành án để bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả hoặc thanh toán trực tiếp cho người bị thiệt hại để bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả thay cho bị can, bị cáo thì tòa án vẫn chấp nhận đó là tình tiết đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. 

Pháp luật hiện nay cũng không quy định định lượng cụ thể là phải bồi thường bao nhiêu % thiệt hại thì mới được áp dụng tình tiết là "bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả" mà chỉ quy định bồi thường khắc phục "đáng kể" đối với thiệt hại đã gây ra, nên việc áp dụng tình tiết này như thế nào sẽ do hội đồng xét xử quyết định đối với từng vụ án cụ thể. 

Một điều cũng cần lưu ý là việc "tự nguyện" bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả phải là "tự nguyện" chứ không phải là do lừa dối, cưỡng ép thì mới được xem xét áp dụng tình tiết này và mới được công nhận việc chuyển giao tài sản đó là bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả chỉ được coi là tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự khi chưa có bản án có hiệu lực pháp luật. Khi tòa án đã tuyên án phúc thẩm thì việc trả lại tiền, tài sản cho người bị hại chỉ là tình tiết thực hiện nghĩa vụ theo bản án.

Trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại tập đoàn Alibaba, bị cáo là Nguyễn Thái Luyện và các đồng phạm thì tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội nhưng vấn đề bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả vẫn chưa được thực hiện nên hội đồng xét xử đã động viên bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả để được hưởng tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự khi tòa án lượng hình. 

Trong trường hợp bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và đồng ý sử dụng những tài sản đang bị kê biên để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho những người bị hại thì tòa án có thể xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Trường hợp bị cáo không đồng ý bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả mà tòa án vẫn kết tội bị cáo đồng thời sẽ quyết định phát mãi tài sản của bị cáo để bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại. Bởi vậy, trong tình huống bị cáo đã nhận tội thì việc tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả và tình tiết quan trọng để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thậm chí có thể là căn cứ để đề nghị áp dụng xét xử bị cáo dưới khung hình phạt theo quy định tại điều 54 bộ luật hình sự.

Trong vụ án này, theo nội dung bản án sơ thẩm thì các bị cáo phải bồi thường thiệt hại số tiền đặc biệt lớn là 2.500.000.000.000 đồng, ít người có được số tài sản lớn như vậy để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả thay cho bị cáo. Việc cá nhân nào đó cho rằng mình bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả thay cho bị cáo với số tiền rất lớn như vậy là điều khó tin, kể cả người đó là người thân thích, ruột thịt với các bị cáo. Trường hợp có tổ chức, cá nhân muốn mua tài sản đang bị kê biên để đảm bảo thi hành án của các bị cáo để bị cáo có tiền bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả thì mong muốn này sẽ không được tòa án chấp nhận bởi theo quy định của pháp luật thì những tài sản đang bị kê biên, niêm phong, phong tỏa hoặc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác để đảm bảo thi hành án thì không được phép giao dịch, không ai có quyền cho phép chuyển quyền sở hữu đối với các tài sản này. Bởi vậy việc mua bán chuyển nhượng đối với các tài sản đang bị kê biên theo bạn án trong vụ án hình sự là không thể thực hiện được cho đến khi thi hành án. Tổ chức cá nhân nào muốn mua tài sản đang bị kê biên trong vụ án hình sự thì phải chờ đến khi bản án có hiệu lực pháp luật mà tuyên nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả của bị cáo thì khi đó có thể tham gia mua tài sản đó theo hình thức mua đấu giá theo quy định về xử lý vật chứng trong vụ án hình sự. 

Trong vụ án này, Hội đồng xét xử cho biết quá trình giải quyết vụ án, một người tên Lê Viết An có đơn đề nghị thay bị cáo Luyện và Võ Thị Thanh Mai (vợ Luyện) khắc phục toàn bộ 2.500 tỉ đồng thiệt hại. Đổi lại, quyền sở hữu bất động sản của Luyện đang bị kê biên trong vụ án sẽ được chuyển cho ông An. Về việc này, hội đồng xét xử cho biết đã mời ông An làm việc. Qua làm việc, hội đồng xét xử giải thích nếu ông An có thiện chí giúp đỡ và muốn khắc phục hậu quả thay bị cáo Luyện thì tòa sẽ ra thông báo để ông An đến cơ quan thi hành án nộp tiền, tòa sẽ xem đây là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tuy nhiên, hội đồng xét xử lưu ý rằng không có quyền công nhận hợp đồng mua bán giữa Luyện và ông An. Đây là quan hệ dân sự, nằm ngoài phạm vi xét xử của vụ án này.

Đây là tình tiết khá bất ngờ trong vụ án hình sự này bởi số tiền mà các bị cáo phải bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả là rất lớn (tới 2.500.000.000.000 đồng), những người có số tài sản này ở Việt Nam chỉ đếm trên đầu ngón tay. Người đưa ra yêu cầu tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả thay cho bị cáo không phải là "vô tư", "cho không", không phải là cho bị cáo tài sản đó để bồi thường khắc phục hậu quả mà bản chất là muốn "mua sớm" các tài sản của bị cáo đang bị kê biên để đảm bảo thi hành án. Yêu cầu này của ông An chắc chắn sẽ không được tòa án chấp nhận bởi không ai có quyền cho bán tài sản đang bị kê biên để đảm bảo thi hành án khi bản án chưa có hiệu lực pháp luật. 
 
Bởi vậy, các bị cáo phải "tự cứu mình" bằng cách có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả hoặc nhờ người thân bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả thì mới được thêm tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. Việc bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả trong vụ án hình sự là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đáng kể đối với những vụ án gây ra thiệt hại cho nạn nhân, bởi vậy, nếu các bị cáo chỉ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nhưng không tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả hoặc việc bồi thường khắc phục hậu quả không đáng kể thì có thể tòa án cấp phúc thẩm vẫn y án sơ thẩm, vấn đề này các bị cáo và các luật sư bào chữa sẽ phải cân nhắc rất kỹ để quyết định hướng bào chữa trong phiên tòa phúc thẩm lần này. 

_____________________________________
Ts. Ls. Đặng Văn Cường
Trưởng Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội.
Địa chỉ: 65B phố Tôn Đức Thắng, phường Quốc Tử Giám, Đống Đa, Hà Nội.
Điện thoại/Zalo: 0977999896 - 02437327407
Website: Luatchinhphap.com
Ảnh 01
Ảnh 02
Ảnh 03

Gọi trực tiếp gặp Luật sư tư vấn hoặc để lại yêu cầu của Quý khách

Tất cả thông tin Quý khách cung cấp, đều được bảo mật tuyệt đối bởi đội ngũ nhân sự Văn phòng luật sư Chính Pháp

Gọi trực tiếp gặp Luật sư 0977 999 896