Logo

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ CHÍNH PHÁP

Vụ Tân Hoàng Minh: Đơn xin giảm nhẹ hình phạt của 1200 người bị hại có phải là căn cứ để áp dụng chính sách "khoan hồng đặc biệt" với các bị cáo ?
18/03/2024
icon-zalo

Vụ Tân Hoàng Minh: Đơn xin giảm nhẹ hình phạt của 1200 người bị hại có phải là căn cứ để áp dụng chính sách "khoan hồng đặc biệt" với các bị cáo ?

Diễn biến mới nhất trước khi phiên xét xử 15 bị cáo trong vụ án xảy ra tại Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Khách sạn Tân Hoàng Minh (Tân Hoàng Minh) đã có hơn 1.200 bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho cha con ông Đỗ Anh Dũng (Chủ tịch HĐQT Tân Hoàng Minh).

Chiều 15-3, trước thời điểm xét xử vụ án (ngày 19-3), các cơ quan tố tụng đã nhận được đơn của hơn 1.200 nhà đầu tư là những bị hại trong vụ án xin giảm án cho các bị cáo.

Trong đơn, hơn 1.200 nhà đầu tư này đã đề nghị tòa án, viện kiểm sát xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, với lý do toàn bộ các bị cáo đều đã hợp tác tích cực với cơ quan điều tra, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thừa nhận hành vi sai phạm, có nhân thân tốt.

do-anh-dung-8302.jpg
Bị cáo Đỗ Anh Dũng (Chủ tịch HĐQT Tân Hoàng Minh) được hơn 1.200 nhà đầu tư có đơn xin giảm nhẹ hình phạt

Riêng đối với 2 bị cáo Đỗ Anh Dũng, Đỗ Hoàng Việt (con trai bị cáo Dũng, Phó Tổng Giám đốc Tân Hoàng Minh), các bị hại đề nghị các cơ quan tố tụng xem xét, áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt vì trong thời gian ngắn họ đã nỗ lực khắc phục hoàn toàn 100% số tiền của người mua trái phiếu (hơn 8.600 tỷ đồng) vào kho bạc nhà nước.

Những bị hại này cho rằng, hành vi khắc phục hậu quả của bị cáo Đỗ Anh Dũng và Đỗ Hoàng Việt giúp cho các bị hại giải tỏa được tâm lý lo lắng.

Trong vụ án này, 2 bị cáo Đỗ Anh Dũng và Đỗ Hoàng Việt cùng với 8 bị cáo thuộc Tân Hoàng Minh và 5 bị cáo khác bị viện kiểm sát truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Hơn 1.200 bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho cha con chủ tịch Tân Hoàng Minh
Đỗ Anh Dũng (bên trái) và con trai Đỗ Hoàng Việt


Đánh giá về tình tiết này Ts. Ls. Đặng Văn Cường, Giảng viên luật hình sự, Trường Đại học Thủy Lợi cho rằng: Việc bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả và cho 1200 người bị hại, đồng thời thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, những người bị hại đã được bồi thường và có đơn xin cơ quan tố tụng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là những tình tiết quan trọng để có thể xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với các bị cáo trong vụ án này. 

Hiểu thế nào cho đúng về nguyên tắc suy đoán vô tội - Ảnh 1.

Tiến sĩ luật Đặng Văn Cường

Trong vụ án này các bị cáo bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cơ quan tiến hành tố tụng thu thập các chứng cứ để chứng minh thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản làm căn cứ buộc tội. Những chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội sẽ được tòa án kiểm tra đánh giá và sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ án trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa tới đây.

Pháp luật quy định lời nhận tội không phải là căn cứ duy nhất để kết tội, lời nhận tội của bị can bị cáo chỉ có thể là căn cứ buộc tội nếu lời nhận tội này phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, những chứng cứ được thẩm tra đánh giá công khai tại phiên tòa. 

Trong vụ án hình sự thì có hai vấn đề quan trọng nhất đó là vấn đề về tội danh và vấn đề về hình phạt. Quá trình điều tra vụ án thì cơ quan tiến hành tố tụng đánh giá các bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Bởi vậy, nếu những lời nhận tội phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được chứng minh các bị cáo đã có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của những người bị hại thì về mặt tội danh thì có lẽ sẽ không xảy ra tranh cãi tại phiên tòa. Tuy nhiên, căn cứ để quyết định hình phạt thế nào cho phù hợp đối với từng bị cáo là vấn đề quan trọng sẽ làm rõ tại phiên tòa tới đây. 

Các bị cáo bị truy tố theo khoản 4, Điều 174 bộ luật hình sự với khung hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Về nguyên tắc chung, nếu các bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS với số tiền từ 500.000.000 đồng trở lên thì hình phạt thấp nhất là 12 năm tù, cao nhất là tù chung thân. Tuy nhiên, bộ luật hình sự cũng quy định trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong đó có ít nhất 02 tình tiết quy định tại Điều 51 bộ luật hình sự thì tòa án có thể xét xử bị cáo ở khung hình phạt thấp hơn khung hình phạt mà viện kiểm sát đã đề nghị truy tố, cụ thể như sau: 

"Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.". 

Theo đó, trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì các bị cáo trong vụ án này cũng có thể được xét xử ở dưới khung hình phạt, các bị cáo với vai trò chủ mưu cầm đầu, thực hành tích cực cũng có thể được xem xét ở mức thấp của khung hình phạt bị truy tố (trong khoản 4, Điều 174 BLHS), còn những bị cáo có vai trò thứ yếu giúp sức, không hưởng lợi hoặc hưởng lợi không lớn thì có thể được xét xử ở dưới khung hình phạt. 

Bộ luật hình sự quy định căn cứ quyết định hình sự phạt đối với người phạm tội sẽ căn cứ vào quy định của bộ luật hình sự về (về loại hình phạt, mức hình phạt trong các khung, khoản, về chuyển khung hình phạt nếu có) đồng thời căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cụ thể Điều 50 Bộ luật hình sự quy định: "Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.".

Điều 51 Bộ luật hình sự quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bao gồm: 

"a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

k) Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

m) Phạm tội do lạc hậu;

n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

r) Người phạm tội tự thú;

s) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

t) Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

x) Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ."

Ngoài ra, khoản 2, Điều 51 bộ luật hình sự cũng quy định: "Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án."

Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

Bởi vậy, trong trường hợp người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường sửa chữa hoặc khắc phục hậu quả thì đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đáng kể. Còn trường hợp người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thì đó là tình tiết giảm nhẹ có thể xem xét theo khoản 2, Điều 51 bộ luật hình sự, tình tiết này "không đáng kể" bằng các tình tiết theo khoản 1, điều 51 BLHS. 

Còn đối với việc đề nghị áp dụng chính sách "khoan hồng đặc biệt" thì có thể sẽ không được xem xét chấp nhận. Bởi "khoan hồng đặc biệt" là khái niệm được nhắc đến trong trường hợp người phạm tội có thể miễn hình phạt theo quy định tại Điều 59 bộ luật hình sự, cụ thể như sau: 

"Điều 59. Miễn hình phạt

Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.". 

Chính sách xét xử hình sự ở Việt Nam là kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố khoan hồng và nghiêm trị. 

Về nguyên tắc chung là pháp luật quy định: "Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội;". Tuy nhiên tùy từng đối tượng, tùy từng sự việc mà căn cứ vào yếu tố nhân thân và yếu tố hành vi, mỗi người phạm tội sẽ có mức hình phạt phù hợp. Trong vụ án có đồng phạm thì mức hình phạt phải thể hiện cá thể hóa vai trò đồng phạm để đảm bảo tính công bằng cũng như hướng đến mục tiêu giáo dục cải tạo đối với các bị cáo và mục tiêu răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. 

Theo đó, sẽ khoan hồng với người đã nhận ra được lỗi lầm của mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, người phạm tội với lỗi vô ý, gây thiệt hại không lớn, với người vai trò thứ yếu giúp sức... Cụ thể, Điều 3, bộ luật hình sự quy định như sau: "Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra;

đ) Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục;

e) Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện;".

Điều 3, bộ luật hình sự cũng quy định nghiêm trị đối với các đối tượng như sau: "c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

d) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.". 

Do đó, với những người chủ mưu cầm đầu, vai trò chính, hưởng lợi lớn, quyết định đến việc phạm tội của các bị cáo khác thì sẽ phải nhận mức hình phạt nghiêm minh, hình phạt sẽ cao hơn đối với các bị cáo khác. Với những bị cáo thực hành tích cực, hưởng lợi lớn, phạm tội có tổ chức thì cũng sẽ chịu mức hình phạt nghiêm khắc hơn các bị cáo khác...
Chính sách khoan hồng cũng sẽ được áp dụng chung và áp dụng cụ thể đối với các bị cáo, đặc biệt là đối với các bị cáo phạm tội do bị sai khiến, chỉ đạo, không hưởng lợi, vai trò thứ yếu giúp sức và đã nhận ra lỗi lầm của mình. Còn "khoan hồng đặc biệt" là khái niệm chỉ được sử dụng khi người phạm tội đủ điều kiện được miễn hình phạt theo quy định tại điều 59 bộ luật hình sự chứ không thể "khoan hồng đặc biệt" cho người chủ mưu, vai trò chính trong vụ án có đồng phạm. 

Hình phạt đối với từng bị cáo sẽ phụ thuộc vào hai yếu tố là yếu tố nhân thân và yêu tố hành vi trên cơ sở nguyên tắc được quy định trong bộ luật hình sự, đặc biệt là quy định cụ thể tại Điều 3 và Điều 50 Bộ luật hình sự. Việc quyết định hình phạt cụ thể sẽ căn cứ vào kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa tới đây. Những vụ án như thế này thì cũng cần đánh giá cao về yếu tố khách quan, về công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực bất động sản cũng như sự tác động của thị trường, tâm lý, sơ hở của người bị hại và những tình tiết khác để có hình phạt phù hợp đối với từng bị cáo, đảm bảo mục tiêu dành đe phòng ngừa giáo dục cũng như tạo cơ hội cho các bị cáo có cơ hội sửa sai, làm lại cuộc đời.

Ảnh 01
Ảnh 02
Ảnh 03

Gọi trực tiếp gặp Luật sư tư vấn hoặc để lại yêu cầu của Quý khách

Tất cả thông tin Quý khách cung cấp, đều được bảo mật tuyệt đối bởi đội ngũ nhân sự Văn phòng luật sư Chính Pháp

Gọi trực tiếp gặp Luật sư 0977 999 896